Kỳ 2: Nữ Cựu Tù Nặng Lòng Với Côn Đảo

"Người tù Côn Đảo nào cũng có một nỗi nhớ da diết, đó là thăm lại nơi giam cầm và thắp nhang cho đồng đội. Riêng tôi hai nỗi nhớ ấy luôn được hiện thực hóa bằng hành động"- đó là những lời tâm sự của bà Nguyễn Thị Ni (80 tuổi), nữ cựu tù Côn Đảo duy nhất sau giải phóng tình nguyện quay về "bám đảo".

Trở về từ "địa ngục trần gian"

Thời chiến tranh, tù chính trị khát khao thoát khỏi “địa ngục trần gian” Côn Đảo (Vũng Tàu), nhưng khi đất nước thanh bình, không ít cựu tù lại chọn mảnh đất chỉ có nhà tù, trại lính và nghĩa trang làm quê hương thứ hai. Và nữ cựu tù Nguyễn Thị Ni (Tiền Giang) là một trường hợp khác biệt như vậy. Chỉ vì nặng lòng và tình thương quá lớn với đồng đội đã hy sinh, sau giải phóng bà đã tình nguyện quay về “bám đảo" và coi nơi đây như quê hương thứ hai của mình.

ky 2 nu cuu tu nang long voi con dao
Những phòng giam tù chính trị tại hệ thống nhà tù Côn Đảo

Theo lời nữ cựu tù kể lại, bà sinh ra và lớn lên tại xã Tân Trung (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Những năm 1959 - 1960, khi vừa 18 tuổi bà tham gia phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre và Tiền Giang. Thời gian sau, bà thoát ly lên Sài Gòn làm biệt động thành.

Năm 1971, trong một trận càn lớn, bà bị mật gián chỉ điểm. Địch bắt bà ở Gò Công, lần lượt giam bà ở các trại Thủ Đức, Tam Hiệp. Trước sau như một, bà không hé răng nửa lời về cơ sở cách mạng. Khi mọi đòn roi không thể khai thác được điều gì ở người tù Nguyễn Thị Ni, chúng đưa bà ra Côn Đảo hòng đè bẹp ý chí, bản lĩnh của người tù bằng đòi roi, tra tấn.

ky 2 nu cuu tu nang long voi con dao
Bà Nguyễn Thị Ni chia sẻ câu chuyện với phóng viên.

Ngót 45 năm đã trôi qua, nhưng bà Ni vẫn còn nhớ như in cái phòng số 6 của Trại 2- trại Phú Hải (Côn Đảo) chỉ rộng chừng 30 m2 mà địch nhốt tới 36 nữ tù chính trị. Bà thuộc nhóm tù chưa thành án nên bị kêu lên tra hỏi liên tục, lần nào cũng bị đánh đập, tra tấn rất dã man vì “ngoan cố, cứng đầu”. Vài tháng sau, chúng chuyển bà sang Trại 4, giam chung với số chị em đã thành án ở phòng số 9.

Bà Ni nhớ lại: Quả thực những ngày trong trại không khác gì “địa ngục trần gian”. Ngoài việc cơm không đủ ăn, nước không đủ uống, những người tù như chúng tôi còn phải chịu đủ các ngón đòn tra tấn của các chúa ngục rất dã man. Chúng thẳng tay đàn áp, đấm, đá vào bất cứ đâu trên thân thể, thậm chí vào cả vùng kín của chị em.

Chúng tuyên bố: "Đánh cho chúng mày tiệt nòi". Bà Ni khẽ rùng mình khi nhớ lại những ngón đòn tra tấn, khổ nhất là bọn chúng đổ vôi bột từ trên sàn xuống, dội nước nóng vào. Vôi trắng gặp nước sôi sùng sục trên khắp thân thể người tù, vệt cháy nham nhở trên da. Vết thương không được băng bó, không được gội rửa, lâu ngày mưng mủ, nhiễm trùng, khiến nhiều chị em đã không qua khỏi.

“Là thế hệ tù ra sau, tôi được các chị ra trước truyền dạy kinh nghiệm chống lựu đạn cay bằng nước tiểu. Mỗi người có sẵn một chén/ca nhựa nước tiểu, khi địch ném lựu đạn cay vào buồng giam đàn áp, lấy nước tiểu uống sẽ hết ngạt, dùng nước tiểu xoa đều lên hai mắt sẽ hết cay. Bằng cách này, chị em đã hạn chế được thương vong, tinh thần đấu tranh càng sôi sục” bà Ni kể lại.

Theo lời bà Ni kể lại, những trận đòn và những cơn đau dường như cũng chai sạn đi. Chúng càng đánh, chị em càng đấu tranh phản đối dữ dội. Mỗi cuộc đấu tranh là một cuộc đàn áp đẫm máu. “Thậm chí, có buổi tối còn nằm chung chiếu, còn bới tóc cho nhau, nhường nhau miếng nước uống, chia nhau từng hột muối. Rồi có chị kiệt sức quá lịm đi trong đêm, chị em chúng tôi chỉ biết ôm chặt thi thể đồng chí mình mà khóc", gạt vội giọt nước mắt chực trào, bà Ni kể.

Quá căm phẫn với hành động tra tấn, có lần bà Ni gào vào mặt một tên lính ngục: "Cùng là người Việt Nam máu đỏ da vàng, cùng chung một giống nòi mà sao các anh tàn ác thế. Các anh đánh chúng tôi khác nào đánh cha mẹ, anh em của mình…". Vừa dứt lời, hai tên lính xông cửa vào đạp giữa ngực khiến bà ngã đập vào tường. Một tên kéo hai chân, một kéo hai tay lôi bà đi chụp hình vân tay, xét hỏi. Sau cuộc xét hỏi, chúng quẳng bà trở về buồng giam với thân xác không thể nhận ra. Quần áo rách tả tơi, máu bê bết khắp người, hai bàn tay sưng vù vì bị chích điện.

Những trận tra tấn thừa chết thiếu sống, đến nỗi, cái thiên chức thiêng liêng nhất của một người phụ nữ, bà Ni cũng không bao giờ được nhận. Bà căm ghét chiến tranh, căm ghét quân xâm lược đã đàn áp dã man đời sống người dân Việt.

Thấy mình vẫn còn may mắn…

Năm 1974, người tù Nguyễn Thị Ni được trao trả về Lộc Ninh (Bình Phước). Bà quay về quê hương Gò Công Đông mới biết tin 3 người em đã là liệt sĩ, mẹ già và bố đã mất. Tuổi thanh xuân gửi vào cuộc chiến, chuyện chồng con lỡ làng, bà Ni trở thành người đàn bà côi cút sau chiến tranh.

“Khi được trao trả tự do tôi cũng ngoài 30 tuổi, chưa một lần hò hẹn, ước duyên, nếu phải chết vì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thì tôi cũng không hề hối tiếc. Tôi chỉ thấy thương và tiếc cho các chị, em đã có chồng con hoặc có người yêu đã hẹn thề mà không kịp trở về”, bà Ni chia sẻ.

Trở về với cách mạng, bà Ni tiếp tục công tác trong phong trào Phụ nữ Giải phóng. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, bà được phân công về huyện Hóc Môn công tác ở Hội Nông dân, rồi được đi học bổ túc văn hóa và trở về Hóc Môn công tác ở Phòng Nông nghiệp. Sau khi được dự khóa bồi dưỡng tại Thủ Đức, bà được chuyển về huyện Gò Công Đông quê nhà, công tác ở Hội Phụ nữ huyện.

Cuối năm 1983, sau chuyến ra thăm Côn Đảo, viếng mộ các bạn tù và các thế hệ liệt sĩ ở Nghĩa trang Hàng Dương, bà làm đơn xin chuyển công tác ra Côn Đảo, làm Phó thư ký Công đoàn huyện.

Bấy giờ, bà mới có điều kiện lập gia đình với ông Đỗ Nam Hồng là cán bộ tập kết trở về, làm Phó bí thư Huyện ủy Côn Đảo. Lấy chồng lúc tuổi đã ngoài 40, lại bị tù đày tra tấn dã man, nên bà không thể làm mẹ được nữa. Hiện nay hai ông bà sống dựa vào nhau trong tình thương yêu của bà con xóm giềng và đồng chí, đồng đội...

Công việc bà tâm niệm hằng ngày là góp phần hương khói, chăm sóc phần mộ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong lao tù thực dân, đế quốc, hiện yên nghỉ ở Nghĩa trang Hàng Dương trên đảo. Mỗi khi có điều kiện, bà lại kể về những trang sử hào hùng của quân và dân Côn Đảo cho con cháu và du khách gần xa.

Người nữ cựu tù Côn Đảo chia sẻ, bà vẫn cảm thấy mình hạnh phúc vì được gắn bó ở nơi một thời bị gông cùm, xiềng xích. Là nữ cựu tù duy nhất bám đảo hơn 40 năm sau ngày giải phóng, bà Ni cho đó là một ân huệ với mình. Bởi, so với nhiều đồng đội, bà còn may mắn hơn họ, khi họ đã vĩnh viễn phải nằm lại nơi đây.

Bà tâm sự: "Người tù Côn Đảo nào cũng có một nỗi nhớ da diết, đó là thăm lại nơi giam cầm và thắp nhang cho đồng đội. Riêng tôi hai nỗi nhớ ấy luôn được hiện thực hóa bằng hành động". Bởi vậy, từ khi trở lại Côn Đảo, hễ nhớ đồng đội là bà Ni lại xách giỏ trái cây, cầm theo bó nhang đi bộ về nghĩa trang Hàng Dương.

Bước sang xuân này, bà Ni tròn tuổi 80. Mấy năm nay đôi chân bà trở bệnh, đi lại rất khó khăn, nhưng đầu óc, tinh thần bà vẫn minh mẫn lắm. Bà nói, được sống đến hôm nay để thấy hòn đảo “địa ngục trần gian” năm xưa đang thay da đổi thịt, trở thành một điểm sáng về văn hóa trên vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc, với bà vậy là hạnh phúc lắm rồi…

___________________

Minh Khuê

Kỳ 3: Một ngày ở “địa ngục trần gian”