Giá trị cốt lõi của Danh thắng Yên Tử

"Giá trị của Yên Tử là tổng hòa của ba giá trị cốt lõi, nổi bật: tâm linh, thiên nhiên, văn hóa - lịch sử. Các giá trị cốt lõi này hòa quyện vào nhau, nâng tầm cho nhau mang lại sự thiêng liêng, sức mạnh huyền bí và tinh thần Thiền… của núi rừng Yên tử"

I. GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỊCH SỬ

Về Yên Tử, ta về với một vùng văn hóa, lưu giữ những giá trị cao quý về lịch sử, văn hóa, văn minh qua các thời đại.

Đây là nơi ra đời Thiền phái Trúc Lâm do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa; một dòng Thiền nhập thế, mang đậm bản sắc dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chỉ ra rằng: Phật ở ngay trong Tâm mình, không phải ở đâu trên cõi trời xa xôi, không hẹn kiếp khác. Đức Phật chỉ là Người Thầy Dẫn Đường, không phải thánh thần ban phước, giáng họa. Nếu để cho Tâm mình an định, sáng suốt, buông mọi vọng niệm, tham-sân-si... để sống với bản tâm an nhiên thanh tịnh thì trí sáng, tuệ giác phát sinh, vô minh phủi sạch, khổ đau chấm dứt, sẽ giác ngộ thành Phật. Phật chính là mình, không phải cầu tìm ở bên ngoài. Với quan điểm ấy, Thiền phái Trúc Lâm thực sự lấy con người làm gốc, tôn trọng và đề cao giá trị của con người. Thực hành Thập Thiện theo chủ trương của Thiền phái Trúc Lâm đã trở thành chuẩn mực đạo đức. Thiền phái Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của một giai đoạn hoàng kim thời Trần ở Việt Nam

Vào thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm phát triển ở đỉnh cao, Yên Tử bao gồm cả một vùng rộng lớn với những công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu: Long Động, Hoa Yên, Vân Tiêu (Uông Bí ngày nay), Quỳnh Lâm, Hồ Thiên, Ngọa Vân (Đông Triều), Thanh Mai, Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) và những công trình khác ở vùng núi phía Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ngày nay.

Dấu tích lịch sử văn hóa hiện tồn ở Yên Tử là hàng trăm ngôi tháp thờ xá lợi thiền sư; hàng chục nền móng chùa, am thời Trần - Lê phía dưới những ngôi chùa được phục dựng; hàng nghìn di vật cổ: tượng, chuông, bia đá, ngói, gạch, sứ, sành… với những họa tiết, hoa văn, kiến trúc độc đáo và sáng tạo.

Trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại ở thế kỷ XX, Yên Tử là căn cứ địa cách mạng, nơi bộ đội luyện quân, là vọng gác canh bầu trời Việt Nam.

Về Yên Tử, ta lạc vào một miền cổ tích với những huyền thoại, truyền thuyết về Ông Vua hóa Phật, về Cõi Thiêng Yên Tử. Một số công trình ở đây có giá trị kỷ lục: Chùa Đồng, Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân

II. GIÁ TRỊ TÂM LINH

Về Yên Tử, ta về với Cõi Tiên, Cõi Phật - nơi con người tu thành Phật, thành Tiên. Tương truyền, hơn hai ngàn năm trước, Yên Kỳ Sinh về núi này tu Tiên, hái lượm cây thuốc, luyện thần dược trường sinh bất lão và chữa bệnh cứu người, khi mất đã hóa thành tượng đá, tên gọi “thầy Yên” thành “Yên Tử”. Gần một nghìn năm qua, đây là nơi tu hành, thành đạo của của các bậc anh hào hiền lương mà cuộc đời, sự nghiệp đã trở thành bất tử, từ Tổ Hiện Quang thời Lý (trước năm 1220) đến các Tổ: Đạo Viên, Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ, Tam Tổ Trúc Lâm… thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), từ Tổ Chân Nguyên thời Lê (thế kỷ XVII) đến Ni Sư Đàm Thái thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XX). Sự tích còn truyền, sử sách lưu danh.

Yên Tử, nơi ông vua hiển Phật. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308) làm vua ở tuổi 20. Sau khi tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, hai lần (1285 và 1288) đánh thắng giặc Nguyên Mông - đội quân hùng mạnh nhất thời ấy, Ngài thực hiện thành công các cuộc hòa giải, xây dựng đất nước Đại Việt thịnh vượng. Từ bỏ ngôi vua ở tuổi 35, Ngài về hành cung Vũ Lâm rồi lên Yên Tử tu khổ hạnh. Từ chức vị cao sang của nhà vua, vua Trần trở về ngôi tôn quý của Nhà Phật. Ngài mất ở am Ngọa Vân trên dãy núi Yên Tử. Ngôi tháp Huệ Quang thờ xá lợi của Ngài.

Về Yên Tử, ta về nơi “đất phúc”, “linh địa” (đất thiêng), nơi hội tụ khí thiêng sông núi, được người xưa tôn kính ghi vào điển thờ. Nhiều người tin những quả núi lâu đời như Yên Tử, Phú Sỹ (Nhật Bản), Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng)… đều có lực từ trường rất lớn, làm tăng thêm lực cho dòng lưu nhân điện trong thân thể những người ngồi thiền, luyện thân và tâm (yoga) trên núi đó. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã từng nhập định và thành đạo ở chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Núi rừng Yên Tử, nơi vua Trần hiển Phật cũng là nơi dung dưỡng tinh thần, giúp ta có được sự bình an, thanh thản, trở về bản tâm chân thật của chính mình.

III. GIÁ TRỊ THIÊN NHIÊN

Về Yên Tử, ta về với núi rừng vùng Đông-bắc Việt Nam. Rừng núi điệp trùng, muôn dải núi đều chầu về Yên Tử, ngọn núi cao (1.068 mét) rừng đại ngàn che phủ, cây mọc chênh vênh trên vách đá, thấp thoáng tháp chùa cổ kính rêu phong, thác đổ, suối reo…, đẹp như những bức tranh thủy mạc.

Về Yên Tử, lên ngọn núi xưa có nhiều tên gọi: Tượng Sơn (Núi Voi), Bạch Vân Sơn (Núi Mây Trắng), Phù Vân Sơn (Núi Mây Nổi), Linh Sơn (Núi Thiêng), An Tử…, đỉnh núi còn lưu dấu tích kiến tạo vỏ trái đất cách đây khoảng 10 triệu năm, trong núi có mỏ than rất lớn. Rừng tự nhiên lưu giữ nhiều nguồn gien động vật và thực vật: Trong 206 loài động vật có xương sống ở đây, có hơn 20 loài quý hiếm ghi danh trong Sách đỏ Việt Nam, như: Sóc bay lớn, voọc mũi hếch, ếch ang, ếch gai, thằn lằn cá sấu…; trong số 830 loài thực vật, có 38 loài đặc hữu quý hiếm như: Táu mật, lim xanh, lát hoa, thông tre, la hán rừng, vù hương, kim giao... Ta đến với những hàng tùng, cây đại, vườn cây ăn quả được người xưa trồng đã hơn bảy trăm năm, rừng trúc bạt ngàn, vạt mai vàng xuộm, khóm cúc hoa nở rộ trước sân chùa. Sau mỗi cơn mưa, cầu vồng thường hiện trên dòng suối. Cảnh sắc thiên nhiên thay đổi bốn mùa.

Về Yên Tử, nơi Trời - Đất - Con Người hòa đồng thành một thể, ta đi trên những nẻo đường người xưa đã từng đi, tự nâng mình lên sau mỗi bước “thượng sơn”, thu vào mắt cả giang sơn, vũ trụ.